Ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả cải cách hành chính
Ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả cải cách hành chính
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định phát triển công nghệ thông tin là một trong những giải pháp để hiện đại hóa nền hành chính và là công cụ quan trọng trong việc thực hiện cải cách hành chính. Với mong muốn tạo nên sự công bằng, minh bạch và hiệu quả, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách hành chính còn được xác định là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, giảm phiền hà cho người dân và doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Ảnh: Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả cấp xã
Trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, bên cạnh việc tích cực, khẩn trương hoàn thiện thể chế, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC)… thì việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước (HCNN) là một khâu quan trọng trong tiến trình cải cách hành chính (CCHC) nhằm thiết lập một nền hành chính năng động, trách nhiệm, hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế.
Ứng dụng CNTT, từng bước hiện đại hóa nền HCNN là xu hướng tất yếu trong bối cảnh cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ hiện nay. Trên cơ sở đó, hình thành hệ thống thông tin điện tử của Chính phủ, góp phần nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của Chính phủ, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn.
Nhìn một cách tổng thể, việc ứng dụng CNTT, từng bước hiện đại hóa nền hành chính tại huyện đã đạt được một số kết quả khả quan. Về ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước và xây dựng hạ tầng CNTT.
Hạ tầng CNTT đã được các cơ quan, đơn vị quan tâm đầu tư, từng bước đáp ứng nhu cầu công việc, tạo nền tảng phát triển chính quyền điện tử. Năm 2019, có 11 phòng, ban chuyên môn cấp huyện triển khai mạng diện rộng WAN. Tỷ lệ CBCC được trang bị máy tính phục vụ công việc đạt 100% ở huyện và 90,87% ở Ủy ban nhân dân cấp xã.
Việc sử dụng chữ ký số trong gửi, nhận văn bản điện tử cũng được các cơ quan, đơn vị quan tâm, thúc đẩy triển khai tại đơn vị. Đã có 11 cơ quan cấp huyện và 08 xã, 01 thị trấn triển khai sử dụng chữ ký số và cung cấp chữ ký số. Đã tích hợp việc sử dụng chữ ký số vào hệ thống thư điện tử, hệ thống quản lý văn bản và điều hành để trao đổi văn bản trên môi trường mạng giữa các cơ quan, đơn vị.
Một số địa phương đã mạnh dạn khai thác các tiện ích của mạng xã hội để áp dụng nâng cao hiệu quả chỉ đạo điều hành của cơ quan HCNN, như: mô hình hỗ trợ công dân kiến nghị về an toàn giao thông qua Zalo; thông tin về phòng, chống thiên tai tìm kiếm cứu nạn qua Facebook; mô hình giải quyết thủ tục hành chính qua Zalo …..
Về cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Theo số liệu thống kê 2019 có 9/9 đơn vị cấp xã đã triển khai cung cấp DVC trực tuyến mức độ 3 và 4. Theo đó, tổng số DVC được cung cấp trực tuyến mức độ 3 là 345 dịch vụ, mức độ 4 là 78 dịch vụ.
Như vậy, việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT của địa phương đã mang lại kết quả tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan HCNN, nâng cao chất lượng cung cấp DVC cho người dân, tổ chức.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động ứng dụng CNTT nhằm phục vụ công cuộc CCHC vẫn còn một số hạn chế:
Một là, hạ tầng CNTT mặc dù đã được cải thiện nhưng còn yếu kém, không đồng bộ, thiếu kết nối mạng hoặc kết nối không thông suốt dẫn đến hạn chế khả năng triển khai ứng dụng phần mềm và cơ sở dữ liệu. Nhiều cơ quan, đơn vị mới chỉ coi trọng đầu tư phần cứng, máy chủ, chưa chú trọng xây dựng kết nối mạng để chia sẻ dữ liệu và thông tin.
Hai là, còn thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quản trị, vận hành, khai thác các hệ thống thông tin đã được đầu tư, đặc biệt là cán bộ quản trị mạng tại các địa phương. Đội ngũ CBCC thuộc các đơn vị cấp xã, vùng sâu, vùng xa, hải đảo khai thác, sử dụng các ứng dụng (internet, máy tính) nói chung và các hệ thống thông tin còn nhiều hạn chế.
Ba là, một số đơn vị cung cấp nhiều TTHC nhưng không phát sinh một hồ sơ nào trên môi trường điện tử, do cung cấp các DVC trực tuyến thuộc các lĩnh vực ít nhu cầu sử dụng, chưa tập trung vào các lĩnh vực giải quyết nhu cầu, bức xúc của người dân (như xây dựng, đất đai,…), công tác thông tin, phổ biến, hướng dẫn sử dụng còn hạn chế, chưa sâu rộng,…
Bên cạnh đó, chưa có quy định về kết nối, chia sẻ dữ liệu trong hoạt động của cơ quan nhà nước; thiếu các quy định cụ thể về văn thư, lưu trữ điện tử, về giá trị pháp lý của văn bản điện tử và về quy định việc sử dụng các văn bản điện tử trong giao dịch hành chính. Bên cạnh đó, việc bảo đảm an toàn, an ninh cho hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước chưa được quan tâm đúng mức. Các chính sách ưu đãi thúc đẩy phát triển, ứng dụng CNTT chậm được triển khai.
Để tiếp tục kế thừa, phát huy những thành quả đạt được, đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT, từng bước hiện đại hóa nền HCNN, góp phần xây dựng Chính phủ kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động, phục vụ người dân, doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, thời gian tới, cần tiếp tục tập trung vào những nội dung sau:
Cần tăng cường triển khai có hiệu quả kế hoạch xây dựng chính quyền điện tử; nâng cao hiệu quả sử dụng phần mềm quản lý văn bản và điều hành; đẩy mạnh việc xây dựng và sử dụng các phần mềm dùng chung, cơ sở dữ liệu, bảo đảm tính tương thích, đồng bộ và thông suốt để nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều hành của người đứng đầu cơ quan HCNN các cấp.
Thường xuyên rà soát, nâng cao chất lượng và hiệu quả cung cấp DVC trực tuyến mức độ 3 và 4. Tích cực trong việc xây dựng và triển khai Hệ thống thông tin một cửa điện tử kết nối địa phương. Khẩn trương hoàn thiện các ứng dụng CNTT phục vụ cho việc quản lý chuyên ngành, kiểm tra chuyên ngành; phổ biến, tập huấn rộng rãi cho cộng đồng doanh nghiệp biết để tham gia sử dụng.
Tập trung xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quản trị, vận hành, khai thác các hệ thống thông tin đã được đầu tư, đặc biệt là cán bộ quản trị mạng tại các địa phương. Điều chỉnh cơ chế đầu tư đặc thù cho CNTT, tăng cường xã hội hóa để phát huy hiệu quả hợp tác công – tư trong công tác này. Đồng thời, cần tổ chức đào tạo, tập huấn, khai thác sử dụng các hệ thống thông tin, sử dụng DVC trực tuyến mức độ 3, 4 cho người dân, doanh nghiệp.